Bài báo nghiên cứu gốc | 14 Tháng 5, 2025
ĐÁNH GIÁ TÌNH TRẠNG DI CĂN HẠCH NÁCH VÀ MỘT SỐ YẾU TỐ LIÊN QUAN TRÊN BỆNH NHÂN UNG THƯ VÚ GIAI ĐOẠN T1, T2 TẠI BỆNH VIỆN K CƠ SỞ 2
Tác giả: Nguyễn Quang Anh, Phạm Tuấn Đạt, Nguyễn Quang Thái, Đỗ Anh Tú, Vũ Thanh Phương, Nguyễn Văn Hải, Phùng Văn Dũng, Nguyễn Đức Anh, Nguyễn Tiến Mạnh
DOI: https://doi.org/10.70755/vnjo.2024.77.14
Số 77 - 2024 | Tạp Chí Ung Thư Học Việt Nam
+ Thông tin tác giả và bài nghiên cứu
Tóm tắt
Mục tiêu:
Đánh giá tình trạng di căn hạch nách và các yếu tố liên quan dự báo tình trạng di căn hạch nách của các bệnh nhân ung thư vú giai đoạn T1, T2 tại Bệnh viện K cơ sở 2.
Đối tượng và phương pháp nghiên cứu:
Nghiên cứu mô tả cắt ngang trên 71 bệnh nhân ung thư vú giai đoạn T1,T2 được phẫu thuật cắt tuyến vú hoặc bảo tồn có vét hạch nách tại bệnh viện K cơ sở 2 từ tháng 06/2023 đến tháng 6/2024.
Kết quả:
Tỷ lệ di căn hạch nách là 39.4%, trong đó 35.2% di căn 1-3 hạch, 4.2% có di căn từ 4 hạch trở lên. Đánh giá hạch nách bằng lâm sàng có độ nhạy và độ đặc hiệu thấp (57 % và 81 %), tỉ lệ âm tính giả 33.3%. Đa số bệnh nhân trong nghiên cứu trên 40 tuổi (85.9%). Vị trí u hay gặp nhất là ¼ trên ngoài (53.5%), tỉ lệ bệnh nhân giai đoạn u T1 và T2 lần lượt là 50.7% và 49.3%. Thể giải phẫu bệnh hay gặp nhất là Carcinoma xâm nhập typ không đặc hiệu (94.4%), độ II (90.1%). Phân nhóm phân tử hay gặp nhất là luminal A với 43.6%, đa số bệnh nhân có chỉ số ki67 cao (98.6%). Đa số bệnh nhân có số hạch vét được từ 10 trở lên (81.7%). Tình trạng bộc lộ quá mức HER2-Neu là yếu tố ảnh hưởng đến tình trạng di căn hạch nách có ý nghĩa thống kê (p=0.026).
Kết luận: Ung thư vú thường di căn hạch nách, kể cả khi u có kích thước nhỏ. Chẩn đoán lâm sàng trước mổ có độ nhạy và độ đặc hiệu thấp. Bác sĩ lâm sàng cần có thái độ cẩn trọng trong đánh giá, lựa chọn phương án điều trị ở nhóm bệnh nhân trên.
Từ khóa: Ung thư vú, hạch nách, di căn hạch, giai đoạn T1,T2
Abstract
Objectives: Evaluate the status of axillary lymph node metastasis and related factors predicting the status of axillary lymph node metastasis in patients with stage T1, T2 breast cancer at K Hospital, facility 2.
Subjects and methods:
Methods: A cross-sectional descriptive study on 71 patients with stage T1, T2 breast cancer who underwent mastectomy or breast-conserving surgery with axillary lymph node dissection at K Hospital, facility 2 from June 2023 to June 2024.
Results:
The rate of axillary lymph node metastasis was 39.4%, of which 35.2% had 1-3 lymph node metastases, 4.2% had 4 or more lymph nodes metastases. Clinical assessment of axillary lymph nodes had low sensitivity and specificity (57% and 81%), with a false negative rate of 33.3%. The majority of patients in the study were over 40 years old (85.9%). The most common tumor location was the upper outer quadrant (53.5%), the proportion of patients with T1 and T2 tumor stages was 50.7% and 49.3%, respectively. The most common histopathological type was invasive carcinoma of the non-specific type (94.4%), grade II (90.1%). The most common molecular subtype was luminal A with 43.6%, most patients had a high ki67 index (98.6%). Most patients had 10 or more dissected lymph nodes (81.7%). HER2-Neu overexpression was a statistically significant factor affecting axillary lymph node metastasis (p=0.026).
Conclusion: Breast cancer often metastasizes to the axillary lymph nodes, even when the tumor is small. Preoperative clinical diagnosis has low sensitivity and specificity. Clinicians need to be cautious in evaluating and choosing treatment options for this group of patients.
Keywords: Breast cancer, axillary lymph nodes, lymph node metastasis, stage T1, T2
Bạn không có quyền truy cập vào bài viết này!
Hãy đăng nhập để xem
Nếu bạn chưa có tài khoản vui lòng? Đăng ký
Đăng nhập